Login Form

Số Người Truy cập

04453911
Today
Yesterday
This Week
Last Week
This Month
Last Month
All days
712
384
2884
2806914
13764
28301
4453911

2024-11-21 13:19

Án Giang Hồ - Hồ Sơ Lật Lại

Thế giới du đãng Sài Gòn Trước Năm 1975

Bài 1.                               

  ĐẠI CATHAY
Người Đứng Đầu Trong "Tứ Đại Thiên Vương"
                                                            Tác giả: Hoàng Dũng

Xã hội Sài Gòn trước năm 1975 đã từng thể hiện tất cả sự tha hóa, băng hoại của nó. Điều đó thể hiện rõ nhất khi cái xã hội đó đã dung dưỡng, là mảnh đất màu mỡ cho thế giới xã hội đen tồn tại và phát triển. Với sự du nhập của thế giới tội phạm theo kiểu “Bố Già” từ Mỹ, theo kiểu Mafia của Ý, công với bộ máy chính quyền đầy rẫy tham nhũng, chuyên bảo kê, thế giới xã hội đen Sài Gòn đã từng trở thành nỗi ám ảnh, khiếp sợ của người dân. Sau ngày giải phóng, du đảng Sài Gòn không còn đất sống, dần tan rã, chỉ còn vài tên khéo luồn lách, tồn tại, để sau đó manh nha trở lại thời “hoàng kim” với hiện tượng Năm Cam. Nhưng, chính quyền nhân dân đã chứng tỏ sự ưu việt, không cho phép thế giới xã hội đen tồn tại.

dai ca thay v n saigon

           Đại Cathay thời trai trẻ & vũ nữ Sài-gòn xưa.

 

Trước năm 1975, xã hội đen trên đất Sài Gòn được người dân đặt cho cái tên vừa miệt thị vừa khiếp sợ, đó là “du đãng”. Có 4 trùm du đãng khét tiếng nhất ở Sài Gòn mà trong giới gọi là “tứ đại thiên vương”, đó là: Nhất Đại – nhì Tỳ - tam Cái – tứ Thế (tức Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế). Trong “tứ đại thiên vương”, Đại Cathay được xếp đầu bảng. Tên trùm du đãng còn được giới du đảng Sài Gòn gọi là “vua của các đại ca giới giang hồ”. Đại Cathay đã từng khuynh loát được giới chính trị, quân sự ở Sài Gòn, cụ thể là Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan. Theo những người am hiểu thế giới xã hội đen Sài Gòn thì nếu Đại Cathay có học hành chút đỉnh, bớt “võ biền” và thêm một chút “trí tuệ”, có thể y đã trở thành một dạng mafia quốc tế.

         Từ trẻ bụi đời thành trùm du đãng

Dân Sài Gòn vào thập niên 1960 và đầu đầu niên 1970 đã quá quen với hình ảnh của Đại Cathay được mô tả trên báo, được tiểu thuyết hóa và dựng thành phim. Đó là một thanh niên điển trai với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ, trên môi không rời điếu thuốc, tay luôn “múa” hộp quẹt Zippo. Thế nhưng, ngay cả đám du đãng đàn em thân cận cũng không ai biết Đại Cathay xuất thân thế nào, tên tuổi thật là gì. Theo hồ sơ của cảnh sát Sài Gòn, Đại Cathay tên thật là Lê Văn Đại, sinh năm 1940, con của ông Lê Văn Cự và bà Sáu (không rõ họ). Cha của Đại cũng từng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối vào thời Nhật Bản chiếm đóng Sài Gòn. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, bỏ Sài Gòn đi vào chiến khu rừng Sác và đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Dương Văn Dương. Vì vậy mà ngay từ nhỏ Đại ít được gần cha, chủ yếu sống với mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, phường Khánh Hội (nay là đường Đoàn Văn Bơ, Quận 4). Quận 4 là vùng đô thị ven Sài Gòn mới ra đời, là nơi tập hợp của người dân tứ xứ bỏ quê vào thành thị. Vì vậy mà nơi đây rất phức tạp ngay từ khi nó mới ra đời, để rồi giới giang hồ Sài Gòn dựa dẫm vào quận 4 để hoạt động, biến nới đây thành “thánh địa” của xã hội đen Sài Gòn trước ngày giải phóng. Sống trong môi trường đó, Đại bỏ học từ nhỏ, thường chơi với  đám trẻ con bụi đời chung quanh. Như thừa hưởng “gien” của người cha từng là dân “anh chị”, Đại sớm thể hiện là đứa trẻ có tính tình phóng khoáng, nhưng lại rất lì đòn, nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh nể phục, tôn là “Đại ca”. Chưa tới 10 tuổi đầu, Đại đã có thể luồn lách vào các chợ, sạp hàng ở chợ Vân Đồn, chợ Tôn Thất Thuyết để ăn trộm dưa, chuối về chia cho những đứa trẻ đồng cảnh ngộ. Trong một trận đánh giữa bộ đội Bình Xuyên và quân Pháp ở chiến khu Rừng Sác, ông Lê Văn Cư cha của Đại bị bắt và đày ra Côn Đảo, ít lâu sau thì chết. Mẹ của Đại lấy chồng khác, người cha dượng rất máu mê cờ bạc, nghiện thuốc phiện nặng, nên gia cảnh nhà của họ ngày càng suy sụp. Người cha dượng thường hành hạ vợ và đứa con ghẻ, một lần Đại không kềm chế được đã đánh lại ông ta rồi bỏ nhà đi bụi đời, sống lang thang ở khu vực vườn hoa Cầu Mống bằng nghề đánh giày, bán báo để tự nuôi thân.

Read More

Tại khu vực làm ăn của Đại tại ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ có rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không riêng gì Đại, mà nơi đây còn tập trung khá nhiều trẻ bụi đời có cùng hoàn cảnh như Đại. Không gia đình, không được giáo dục, bọn trẻ bụi đời liên tục đánh lộn giành khách, đứa nào gan lỳ, có sức khỏe thì đứa đó chiến thắng và được nhiều khách hàng hơn, cuộc sống vì vậy mà cũng đỡ vất vả hơn. Dù mới đến khu vực này, nhưng với bản tính lỳ lợm và liều lĩnh, Đại cứ lao vào đối thủ, buộc đối phương phải đánh “cận chiến”, nhờ vậy mà Đại phát huy được những cú đấm của mình, còn đối thủ dù cao lớn hơn nhưng trở nên bị động, lúng túng. Kết quả là trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng trong các cuộc “tỉ thí”, dù sau mỗi cuộc “so găng” là tay chân mặt mũi cậu bé đầy vết rách bầm, sưng húp. Không phải mất nhiều thời gian, Đại nghiễm nhiên trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, tên du đãng nhóc này được ráp thêm vào tên mình cái đuôi rạp hát Cathay.

saigon39

 si gn xa

                                            Sài-gòn xưa

Cái tên Đại Cathay ra đời từ đó, vào năm 1954, lúc Đại mới 14 tuổi, cái tên trong suốt gần 20 năm làm cho giới du đãng Sài Gòn và cả những người dân lương thiện mỗi lần nghe tới phải sợ hết hồn.

         Liều lĩnh và nghĩa hiệp

         Từ ngày trở thành tay anh chị trong thế giới trẻ bụi đời với cái tên Đại Cathay, Đại vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em đi làm mang tiền về nộp.
        Hàng chục trẻ bụi đời dưới trướng của Đại như Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà..., tụ tập quanh Đại Cathay, mỗi sáng nhận thùng đánh giày, nhận báo, sau đó túa đi làm nhiều nơi, chiều đem tiền về nộp cho “đại ca” Đại. Mới chút tuổi đầu mà Đại đã biết cách thu phục “nhân tâm”, bằng cách rất hào phóng, không bao giờ giữ tiền làm của riêng cho mình, mà  chia hết tiền cho đàn em, bản thân Đại cũng chỉ nhận một phần tương đương với mọi người. Nhiều đứa trẻ bụi đời trong nhóm chẳng may bị ế báo hoặc bị mưa ướt hết báo, Đại Cathay chẳng những không bắt đền tiền, cũng không chửi bới, đánh đập như những tay anh chị khác, mà còn lấy tiền lời chung để bù đắp, chia phần cho những đứa trẻ không may. Nhờ vậy mà đàn em càng nể phục và  nghe lời Đại, tiếng “lành” nhanh chóng vang xa, trẻ bụi đời các nơi rủ nhau về tề tựu dưới trướng của Đại. Với tình hình đó, nạn đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay cũng tự nhiên mà giảm hẳn. Khu vực “làm ăn” của nhóm trẻ bụi đời do Đại Cathay đứng đầu lúc đó nằm gần bót cảnh sát quận Nhì, còn có tên là bót Dân Sinh.  Sự nổi tiếng của nhóm trẻ bụi đời sát bên đã làm cho các cảnh sát trong bót quan tâm, nhiều lần Đại Cathay sau khi “chinh phạt” các nhóm trẻ khác đã bị các ông cò bót quận Nhì tóm cổ đem về bót. Không dễ trị như những đứa trẻ lang thang khác, Đại Cathay vẫn trơ trơ những lời hăm dọa, tát tai, đá đít, một mình nhận tội chứ nhất định không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả. Một lần, các cảnh sát quận Nhì nghĩ ra đòn độc để trị Đại Cathay, qua đó dằn mặt cả bọn trẻ bụi đời. Họ bắt Đại quỳ xuống đất, hai cảnh sát hai bên xốc Đại đứng nhón chân lên, xong họ cạy miệng cậu bé, bắt thả vào miệng con gián sống, để cho nó chui tọt vào cổ họng, rồi chui thẳng xuống dạ dày.  Ngứa ngáy, kinh tởm, Đại Cathay ói ra mật xanh. Đám trẻ bụi đời đứng xung quanh sợ mất hồn, có đứa đái ra cả quần. Nhưng Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, trấn tĩnh trở lại, tiếp tục câm như hến, chỉ nhận một mình mình gây hấn, không có đứa trẻ nào khác tham gia. Trước đứa trẻ cứng đầu, bất trị, các “ông cò” chỉ còn cách tống Đại Cathay vào Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.

cathay icathayii

                                                Đại Cathay và vợ...

Thời gian Đại đi “giáo hóa”, ở khu vực rạp hát Cathay các băng nhóm bụi đời khác nổi lên, hoành hành những đàn em của Đại. Sau khi ra trại, Đại quay trở về chốn cũ và “tái lập” lại trật tự cũ bằng những trận thư hùng mỗi ngày một khốc liệt hơn theo đà lớn lên của Đại.

Năm 1955, khu vực rạp hát Cathay được xây dựng chỉnh trang lại, không còn chỗ dung thân cho trẻ bụi đời, Đại Cathay chuyển sang “họat động” ở khu vực Hãng phân bón Khánh Hội ở quận 4, cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos, cách không xa nhà của mẹ Đại, nhưng cậu bé kiên quyết không ghé nhà. Đám trẻ bụi đời ở đây từng nghe tiếng Đại Cathay, nhưng không dễ nhượng lãnh địa làm ăn một cách dễ dàng, vậy là xảy ra những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự liều lĩnh và lì đòn của Đại lại giành phần thắng, toàn bộ trẻ bụi đời ở khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, là khu vực nổi tiếng về giang hồ, dao búa, đã kéo nhau về qui phục về dưới trướng của một “đại ca” từ nơi khác mới đến.

Lúc ấy, khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh được dân giang hồ gọi là khu Da Heo, do một tay giang hồ “người lớn” nổi tiếng tên là Tám Lâu cai quản. Sáng sáng, Tám Lâu ở trần, mặc quần dài, ngồi trên chiếc xích lô đạp rảo khắp khu vực đi kiểm tra lãnh địa, mặt luôn đằng đằng sát khí, bà con buôn bán ở khu Da Heo sợ hắn như một hung thần. Tất cả người buôn bán đều phải “đóng xâu” cho Tám Lâu để được yên ổn làm ăn. Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày từ đâu mới đến trổ tài đánh đấm, thu phục đám trẻ bụi đời, Tám Lâu thấy có cảm tình Đại. Thỉnh thoảng Tám Lâu kêu Đại đi nhậu với mình và kết nghĩa anh em. Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước một tay giang hồ uy thế hơn, tên là Bé Bún, người lúc đó được xem là trùm du đảng quận 4, khu vực cạnh hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Bé Bún cậy đông quân, thường kéo qua Cầu Ông Lãnh "thu thuế" bà con tiểu thương chợ vựa Cầu Muối. Tám Lâu phải làm ngơ cho băng của Bé Bún cướp bóc ngay trên lãnh địa của mình. 

Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh là Tám Lâu thở ngắn than dài chuyện băng đảng của Bé Bún càng ngày càng lộng hành. Thằng em Đại Cathay đăm chiêu nghĩ ngợi, nốc cạn ly rượu đế và đề xuất với đàn anh: “Anh Tám để đó em lo. Phải cho tay Bé Bún nằm viện thì đám này mới ngán! Lúc đó anh em mình mới có đất làm ăn”. “Mày là con nít biết gì chuyện người lớn. Tụi nó mạnh lắm, tao còn thua nó, cỡ mày nó bóp mũi quăng xuống bến Khánh Hội”, Tám Lâu cắt ngang. Đại Cathay chẳng nói chẳng rằng, uống hết ly rượu rồi lặng lẽ bỏ về.

Đại đem chuyện ra bàn với này đám chiến hữu là Ba Binh, Ba Tướng, xong tương kế tựu kế vác dao qua Bến Vân Đồn khiêu khích bằng cách cho vài tay em của Bé Bún sứt mặt mũi. Bị xúc phạm, Bé Bún huy động toàn bộ lực lượng tấn công sang khu Da Heo để hỏi tội Tám Lâu, làm Tám Lâu và đám đàn em hoảng sợ bỏ chạy. Thế nhưng, Tám Lâu chưa kịp chạy thoát thì bất ngờ nghe Bé Bún và các tên du đãng thân cận khóc lóc, ôm đầu máu chạy ngược trở lại. Thì ra Đại Cathay đã âm thầm cùng các đàn em của mình giăng bẫy, đợi cho băng Bé Bún hung hăng lọt vào thế trận là đánh tới tấp làm cho băng du đãng “người lớn” bị bất ngờ, không kịp trở tay, đành thúc thủ trước bọn du đãng nhóc tì.

Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tuổi 16 - 17 tả xung hữu đột, lăn xả vào chém quân Bé Bún, xong xộc thẳng sang cả bên kia cầu, tràn vào cả “thánh địa” của Bé Bún ở quận 4. Riêng Đại Cathay đã kiên trì đeo theo Bé Bún và “tặng” cho tay giang hồ lừng danh quận 4 này mấy nhát dao, làm cho y phải nằm viện cả tuần. Sau khi ra viện, Bé Bún và đám đồ đệ không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa. Từ đó “đàn anh” Tám Lâu đâm ớn tài nghệ và sự lì lợm của “đàn em” Đại Cathay. Để rồi chỉ cần thêm một vài “phi vụ” nữa, Tám Lâu phải tự giác tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, rồi nhường hẳn ngôi vị trùm du đảng khu Da Heo cho Đại Cathay, còn mình thì lui về làm “thái thượng hoàng”. Vậy là, chưa đầy 20 tuổi, Đại Cathay đã trở thành trùm du đãng của khu vực Da Heo, một trong những địa bàn phức tạp nhất Sài Gòn khi ấy. Đại bắt đầu tổ chức thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút…  Xong Đại bảo kê tất cả các doanh nghiệp kinh doanh lậu các ngành hàng như xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...trong khu vực. Đại Cathay bắt đầu ăn chơi và làm mưa làm gió, vươn dần ảnh hưởng ra khắp Sài Gòn – Chợ Lớn, tập tành tiếp xúc với cuộc sống của giới vương giả, quan chức ở Sài Gòn.

        Thâu tóm các băng nhóm du đãng

Đầu những năm 1960, phong trào Hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam và khuấy động “Hòn ngọc viễn đông” Phong trào Hippie và chủ nghĩa hiện sinh khuyến khích thanh niên Sài Gòn sống nhanh, sống vội, lao vào ăn chơi. Các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm đã mọc lên như nấm, lối kéo thanh niên Sài Gòn mỗi khi chiều về. Đại Cathay tuy thất học, nhưng cũng “học làm sang”, tập tành lui tới thế giới ăn chơi vốn chỉ dành cho giới thượng lưu. Trong những lần lui tới chốn ăn chơi thượng lưu ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một số trí thức, văn nghệ sĩ, con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này chơi bản bản Sayonara rất điêu luyện)... Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn cho Đại Cathay, từ đó mà Đại đã đứng ra cùng với Bảy Si (anh vợ Năm Cam), bà Bảy Trà mở sòng bài lấy xâu ở khu vực chợ Cầu Muối. Vốn là dân thất học, chỉ quen đâm chém, đánh đấm, ban đầu Đại Cathay không hình dung nổi chuyện quản lý sòng bài, với lại lúc đó đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... Thấy họ điều hành sóng bạc quy mô, hiện đại, Đại không nghĩ mình có thể làm được, không cạnh tranh nổi, nhưng Hoàng Sayonara đã “tham mưu”: “Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc,... Còn dân giang hồ, người buôn bán ngại vô đây. Ta mở sòng vừa vừa sẽ kéo khách bình dân, từ từ sẽ kéo luôn khách giàu có”. Đại Cathay đồng ý.

Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với băng của một trùm khu Cây Da Xà tên là Hỏi. Lúc này Đại đã mua được chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp "phơi" đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Cả quyền lực và tiền bạc đều đến với Đại Cathay dồn dập trong những năm đầu thập niên 1960. Đến năm 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng cả Sài Gòn – Chợ Lớn. Hầu hết các nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2, quận 3 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều có phần hùn của Đại dù trên thực tế hẳn chẳng cần bỏ ra một đồng nào. Đại Cathay và đàn em muốn vào ăn chơi nhảy múa ở đâu cũng được, xong chẳng thèm trả tiền, thậm chí nhiều nhà hàng, quán bar còn lấy làm vinh hạnh vì được “đàn anh” chiếu cố tới ăn uống, coi như cách để bảo đảm không có băng nhóm nào khác dám héo lánh tới quấy phá. Dù vậy, nguồn lợi lớn hơn cả của Đại Cathay không phải là tiền bảo kê, mà chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn mới là những “nhà tài trợ” tình nguyện để Đại nuôi quân. Bù lại họ nhờ Đại Cathay làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác, hoặc cần thiết phải đòi một món nợ khó đòi nào đó. Những “khách hàng” của Đại Cathay lúc đó có cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các trùm doanh nghiệp, Đại Cathay dần dà tiếp cận được với các nhân vật quyền thế và tên tuổi khác trong bộ máy chính quyền Sài Gòn.

Sau khi thống lĩnh khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một thế lực lớn trong giới du đảng Sài Gòn, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Tuy nhiên, lúc ấy ở Sài Gòn – Chợ Lớn đã có 3 tên tuổi lớn khác trong giới giang hồ, đó đó là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Thấy Đại Cathay nhỏ mà chơi hỗn, nhiều lần xâm phạm lãnh địa của các đàn anh, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định phối hợp để dằn mặt “thằng nhỏ chưa sạch nước mũi” đã dám “vuốt râu hùm”. Hai tên giang hồ cộm cán này họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World). Được sự hậu thuẫn của một tay giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường – Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái mời Đại đến vũ trường Aristo để "bàn công việc". Cũng với tính lỳ lợm, coi trời bằng vung, Đại một mình đến hang hùm. Vừa bước vào vũ trường Aristo, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống, xong 4 đàn em của Thế nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết.

Hơn 1 tháng sau, khi những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại Cathay đã âm thầm đơn thương độc mã giắt dao vào lưng đi tìm từng tên một trị tội. Cả 3 tên trùm giang hồ Sài Gòn là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Ba Thế đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Một điều kinh khủng là sau khi chém Huỳnh Tỳ (cố ý chém trọng thương chứ không để chết), Đại “nhắn” với Ngô Văn Cái là tuần sau sẽ tới lượt hắn vì cái tội chơi bẩn đánh lén không đáng mặt anh hùng. Đúng một tuần sau Ngô Văn Cái phải ôm đầu máu đi bệnh viện vì những nhát chém rất nghề của Đại Cathay cùng với lời nhắn cho Ba Thế... Sau khi cả 3 “đại ca” trong giới giang hồ đều bị Đại Cathay “trả nợ” bằng những nhát dao vừa đủ để thẹo cả đời, những “người lớn” đã biết khiếp sợ, gửi lời xin lỗi Đại Cathay. Cuối cùng, nhờ Tám Lâu, Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp và dàn xếp, Đại Cathay mới đồng ý "hòa giải". Từ đó danh xưng "Tứ đại thiên vương ĐẠI - TỲ - CÁI - THẾ” trong giới du đãng Sài Gòn đã xuất hiện, chính thức xác nhận Đại Cathay đứng đầu trong giới du đãng Sài Gòn.

Xã hội miền Nam khi ấy với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Đại Cathay đứng ra bảo kê cho nhà hàng, vũ trường, sòng bạc, đến lượt các quan chức bảo kê lại cho Đại Cathay. Thuở ấy Cò Ly, quận trưởng quận 1 đã công khai bảo kê cho Đại Cathay. Hàng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hang sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm. So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều.  Tuy nhiên, vì quá khiếp sợ trước uy danh của Đại Cathay, nhất là khi nhận lời mời của giới Hắc Đạo, Đại một mình tay không lên nhà hàng Đồng Khánh hội kiến với Tín Mã Nàm, cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo.

Kể từ đó, gần như thế giới giang hồ cả Sài Gòn – Chợ Lớn đã về thuần phục với trướng của Đại Cathay. Thằng nhỏ bụi đời thất học ngày nào giờ có thể làm thay đổi cả xã hội Sài Gòn nếu nó muốn.

Tác giả: Hoàng Dũng

Shaolaojia sưu tầm và giới thiệu.

Các bạn bấm vào chữ Next phía dưới để xem tiếp bài viết

 

 Bài 2.

Đại Cathay Chết Vì Đùa ... Với Lửa !!!

 Khi đã thâu tóm được hầu hết các băng du đảng có tiếng tăm ở Sài Gòn, Chợ Lớn, danh tiếng và tiền bạc đều lên như diều gặp gió, Đại Cathay cứ ngỡ mình là nhất thiên hạ, xem thường mọi thứ trên đời. Đến cả tướng Nguyễn Cao Kỳ và tướng Nguyễn Ngọc Loan mà Đại Cathay cũng chẳng xem ra gì. Thậm chí, Đại Cathay còn bị gán cho là đã gây ra vụ tai nạn giao thông làm chết người sĩ quan thân cận của Nguyễn Ngọc Loan vì hiềm khích cá nhân. Việc gì đến rồi cũng đến, Đại Cathay đã phải chết vì dám "vuốt râu hùm, dám đùa với lửa!".

Làm vua không ngai

Như đã nói, Đại vốn thất học, tên mình viết còn không xong. Thế nhưng, chữ ký của Đại lại là một giai thoại truyền nhau trong giới giang hồ. Người ta đồn rằng, một “đại ca” tên là Chà Và Hương dạy cho Đại cách ký tên. Trong một lần đi Đà Lạt, Hương đã hướng dẫn Đại ký chữ “Đ” giống như chiếc cung của người thượng quay ngược lại. Còn “chữ “A” giống như hình biển báo giao thông và gạch ngang giữa. Trong khi chữ “I” là một thanh sắt cắm từ trên xuống đất rồi đóng một cái đinh vào phía dưới. Đó là tên của Đại. Đại chỉ cần ký vào tờ giấy viết sẵn và đệ tử chỉ việc cầm đến các nhà hàng, vũ trường lấy tiền, ai nhìn thấy chữ ký ngộ nghĩnh ấy cũng phải xì tiền ra ngay.  Đại rất phóng khoáng, do vậy mỗi lần hắn ngồi đánh bạc ở đâu là nơi đó đám du đãng, nghiện ngập tập trung vất vưởng bên ngoài để chờ được bố thí. Có những người quê tận miền Tây sau khi mãn hạn tù cũng đến rạp Cathay để tìm Đại xin tiền mua vé xe về quê. Có lần để tỏ ra là một trùm giang hồ hiệp nghĩa, Đại đã cho một người cơ nhở hẳn chiếc xe máy để làm phương tiện đi về. Mỗi lần sắp có trận đánh để lấn chiếm lãnh địa, Đại luôn cho đàn em đi tới đó trước để làm từ thiện nhằm thu phục nhân tâm trước khi vào bảo kê khu vực. Có người đã được Đại biếu số tiền lớn để mở sạp hàng.

xam-minh-3

xm g.hii

                             Đại  Cathay & hình xăm của những tay giang hồ  có "số".

         Cũng giống như một bộ phận dân Sài Gòn du nhập lối sống phương Tây, Đại Cathay cũng rất mê nhảy đầm, cặp bồ với các văn nghệ sĩ, tài tử... Không chỉ đại ca giang hồ, mà giới tướng lĩnh Sài Gòn cũng chạy theo trào lưu thời thượng này, mà điển hình nhất là tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ. Một lần Đại Cathay tình cờ diện kiến Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó là trung tá không quân) trong vũ trường, Đại Cathay không chừa được thói ngông nghênh, bị Nguyễn Cao Kỳ phê phán. Không ngờ, sự thể hiện uy quyền không đúng chỗ của Nguyễn Cao Kỳ đã phải trả giá bằng một quả đấm như trời giáng vào bụng. Giữa chốn đông người, Nguyễn Cao Kỳ dù tái mặt tức tối nhưng không thể làm gì hơn, để không lùm xùm lớn chuyện, Kỳ đành im lặng rời khỏi vũ trường. Không ai có thể nói cú đấm của Đại Cathay ngày hôm đó có liên quan gì đến cái chết của hắn ngoài đảo Phú Quốc sau này không?

           Thời ấy, nhiều tướng lĩnh quân đội, cảnh sát vì bất lực cũng có mà vì “đi đêm” với thế giới giang hồ cũng có, nhiều tướng lĩnh cũng muốn dựa vào bọn du đảng để làm hậu thuẩn cho mình. Ngày ấy, sau trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu du đảng Sài Gòn. Rồi trận thu phục băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã làm cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Bộ máy chính quyền Sài Gòn như cũng bất lực, tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời Đại ra làm nhân viên công lực quốc gia; rồi tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát, thế nhưng Đại từ chối tất, chỉ muốn làm trùm du đảng. Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía, hắn ngồi chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần, theo sau hộ tống là cả chục tên đàn em phóng xe máy. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố...

        Tướng Nguyễn Cao Kỳ muốn thu phục Đại Cathay

         Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay và băng du đảng của hắn ngày càng làm cho những quan chức và cảnh sát ngụy mang tiếng, cảm thấy bối rối. Vài lần Đại bị bắt và bị tống cổ vào khám như để trấn an dư luận, nhưng chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Mà cũng có thể họ cố tình muốn thả Đại vì tên trùm du đảng này đã ăn chịu với rất nhiều quan chức Sài gòn. Với bản tính cao bồi của mình, thay vì trị Đại về tội ngông nghênh coi thường pháp luật, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã nghĩ ra cách mà ông thú vị, đó là chinh phục Đại. Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, tướng Nguyễn Cao Kỳ bèn cho gọi tên du đãng đến. Gặp Đại, tướng Kỳ nói giọng bề trên: “Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được”. Tướng Kỳ vừa dứt lời, Đại Cathay đã trả lời ngay: “Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?”. Tướng Kỳ bị chạm tự ái nhưng vẫn kềm chế, thuyết phục: “Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi”. Đại Cathay dứt khoát: “Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được…”. Vậy là, sau cái lần đấm thẳng vao bụng Nguyễn Cao Kỳ ở vũ trường, Đại Cathay lại có dịp diện kiến với tướng râu kẻm, và lần này Đại Cathay cũng ở thế thượng phong trước tay tướng nổi tiếng là cao bồi này.

         Nguyễn Cao Kỳ không thu phục được Đại Cathay, đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành, thử ra oai với Đại. Tướng Loan đã tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, rồi  cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt các băng nhóm du đảng, do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Nguyễn Ngọc Loan cho phép “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên du đảng nào nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Vừa giương “cây gậy”, Nguyễn Ngọc Loan vừa chìa “củ cà rốt” về phía Đại Cathay, với mong muốn sẽ thu phục được tên trùm du đảng này, sẽ “dĩ độc trị độc”, dẹp yên nạn du đảng trên đất Sài Gòn – Chợ Lớn. Nguyễn Ngọc Loan cho mời Đại Cathay đến Nha Cảnh sát Đô thành và nói: “Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng”. Đại Cathay thẳng thừng từ chối: “Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt”. Nguyễn Ngọc Loan tiếp tục dằn mặt: “Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành. Tôi không thể để anh muốn làm gì thì làm. Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu còn tôi, du đãng sẽ không còn đất sống!”.  Đại Cathay trả lời: “Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được”. Cuộc gặp kết thúc. Nội dung các cuộc gặp nói trên đã nhanh chóng lan truyền trong giới du đảng và tiếng tăm Đại Cathay càng nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu hùm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho.

        Cái chết của đại úy thân cận Nguyễn Ngọc Loan

        Đại Cathay ngày càng ngạo mạn, lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách trong ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ. Vũ trường Olympic là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới, cũng là nơi chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan giải sầu hàng đêm. Trong khi viên tướng có máu giang hồ và đám lính tới vũ trường một cách xô bồ, bụi bặm, thì Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn. So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại Cathay và các đồ đệ tỏ ra hơn hẳn, rút tiền chẳng bao giờ đếm, được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Đám vệ sĩ của tướng Sáu Lèo tức lắm, nhưng chưa có dịp gây hấn.

Một buổi tối, sau một ngày “thu thuế” vượt chỉ tiêu, Đại Cathay và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối kéo đến vũ trường Olympic để “đập phá”. Như lệ thường, đám cave ùa tới vây lấy các “đại ca”.  Trong lúc cả đám du đảng đang vui vẻ với các cave, bất ngờ cánh cửa vũ trường mở toang. Đám lính của Sáu Lèo trong những bộ đồ rằn ri xộc vào, kéo ghế ngồi, nhưng không thấy cô cave nào đến phục vụ, trong khi ở bàn bên băng nhóm du đảng giỡn hớt với các cave. Một cận vệ của tướng Nguyễn Ngọc Loan là thiếu úy Hải rời khỏi bàn, đến đứng đối diện với Đại Cathay, hất hàm nói: “Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?”.  Vẫn không buông vai cô cave, một cận thần của Đại là Hải Súng hất mặt nói: “Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?”. Tay thiếu úy đưa tay vào bụng cố ý làm lộ khẩu súng và nói: “Đừng chơi quê tụi này chớ!”. “Thì đã sao. Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích!”. Bị khiêu khích, tên thiếu úy Hải xấn tới chụp lấy tay cô cave kéo về phía mình, tuyên bố: “Không thích cũng bắt!”. Hải Súng chụp chai Black and White trên bàn ném mạnh vào mặt đối thủ. Thiếu úy Hải buông cô cave, tránh đòn và móc súng. Đại Cathay hét lên: “Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây”. Băng của Đại chưa kịp chạy thì các loạt súng đã nổ, một viên đạn trúng vào đầu gối Đại làm y gục xuống. Hải Súng xốc Đại lên bỏ chạy khỏi vũ trường, trong lúc Lâm Chín ngón có giắt súng theo đã đọ súng cầm chân đám lính, hai bên bắn loạn xạ, nhưng vì đèn trong vũ trường vút tắt, nên không gây thương vong gì thêm. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng dìu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường, rồi được chiếc Mustang chở khỏi hiện trường. Tuy nhiên, sau đó nhiều đàn em của Đại Cathay cũng bị cảnh sát truy bắt, tống giam vào bót.

       Thoát chết trước họng súng của cảnh sát, nhiều “chiến hữu” lại bị cảnh sát bắt giam, Đại Cathay như biết điều hơn. Một buổi tối, hắn bao nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Đại Cathay mở lời: “Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh…”. Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, đã từ chối thẳng thừng: “Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu!”. Bình thường thì có lẽ máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên, nhưng do đang yếu thế nên Đại vẫn nhỏ nhẹ: “Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì”. Sau buổi tiệc đó không lâu, đại úy Trần Kim Chi đã bị một chiếc xe chở gỗ bất ngờ đụng ngang qua chiếc xe hơi CV2 của ông ta khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ, làm ông ta chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất. Cả giới du đảng Sài Gòn và lực lượng cảnh sát ngụy đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại đại úy Trần Kim Chi.

        Bỏ mạng nơi hải đảo

        Cái chết của Trần Kim Chi cũng là dấu chấm hết của cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, tướng Nguyễn Ngọc Loan đã ra lệnh bắt tống giam Đại Cathay với tội danh “Du đãng đặc biệt” cùng với nhiều trùm du đảng khác ở khắp Sài Gòn. Hôm tướng Loan gửi giấy triệu tập Đại do đại úy Chi mang tới, tên trùm du đảng vẫn nghênh ngang, hỏi người đem giấy triệu tập: “Ông Loan mời tôi hay bắt tôi? Nếu bắt thì đưa còng số 8 vào đây, còn nếu mời thì 30 phút nữa tôi sẽ có mặt tại Tổng nha cảnh sát”. Đại úy Chi chạy về Tổng nha báo lại cho Loan biết và đúng 30 phút sau thì thấy xe của Đại chạy đến. Đại vẫn nghĩ rằng như bao lần khác, tướng Loan mời hắn đến để thuyết phục, hoặc cùng lắm là tạm giam vài hôm cho có lệ rồi thả ra. Thế nhưng, tên trùm du đảng đã không thể lường trước tình huống xấu nhất, đó là chuyến đi cuối cùng của hắn.

 ng-cao-ky-5

                         Hai đống lửa...  trong  nghi án "Cái chết của Đại Cathay"(?).

       Ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc. Trước khi bước chân lên máy bay, Đại còn quay lại đấm một cảnh sát dập sống mũi chỉ vì hắn nghe loáng thoáng người này nói một câu gì đó không hay về hắn. Cùng bị lưu đày hải đảo với Đại Cathay có một số giang hồ cộm cán như Bảy Si (anh vợ Năm Cam sau này), Lâm Chín Ngón, Hải Súng...  Biết chuyến lưu đày ngoài đảo “lành ít dữ nhiều”, vợ của Đại treo giải 1 triệu đồng sau đó nâng lên 1,5 triệu nếu ai đưa được Đại về lại Sài Gòn. Trên đảo Phú Quốc, Đại và nhóm trùm du đảng bị nhốt trong cái gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”. Trại là những dãy nhà dã chiến lợp tôn thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo: “Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi!”.  Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất: “Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó”. Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng” và chết tên từ đó. Trại “Cửu Sừng" chẳng những không “hướng nghiệp” được đám du đảng, mà trái lại nơi đây đã làm cho chúng kết tình “huynh đệ” sâu nặng hơn, để sau này khi được thả về đất liền, chúng tiếp tục trở thành những băng nhóm du đảng còn dữ dội hơn trước lúc ra đảo.

         Toàn bộ đám du đãng bị bắt đưa ra đảo như Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hải Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên du đảng cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu để xác nhận “đẳng cấp giang hồ” của những tên du đảng, tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này nghiễm nhiên trở thành đàn anh, được những tên du đảng trong đất liền nể phục, tôn làm đại ca. Duy chỉ có Đại Cathay là ngoại lệ. Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay tên là Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic.  Chính trong những ngày tới “đập phá” vũ trường Olympic, Đại đã lọt vào mắt xanh của cô Nhân bởi tính khi ngang tàng mà nghĩa hiệp của Đại. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình khó có ngày trở về.  Cô Nhân cùng anh trai treo số tiền 1,5 triệu đồng, là số tiền cực lớn lúc đó, cho ai có cách cứu Đại Cathay đem về đất liền. Món hời này đã được đại tá Long - một sĩ quan thuộc lực lượng Hải quân chỉ huy tàu tuần lưu - nhận giúp đỡ.

         Đó là vào đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay, cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục.  Theo kế hoạch, đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn dưới bãi biển để đưa đám tù ra khơi, rồi có tàu hải quân do Nhân thuê sẵn rước Đại về đất liền. Theo đúng kế hoạch, Đại Cathay và khoảng một chục đàn em trong đó có Xì Kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón cùng vượt ngục. Nhưng đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón ở lại, vì tính Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện. Để cho an toàn, trước  giờ khởi sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo: “Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách”. Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ nhằm làm cho Lâm phê thuốc ngủ say, bảo đảm an toàn cho chuyến đi của cả bọn.

       Đúng 12 giờ đêm ngày 7/1/1967, Đại Cathay dẫn cả bọn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Thế nhưng, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị bắt lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy vào khu núi Tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Cùng lúc, có tiếng của nhiều chiếc máy bay trực thăng trên đầu, cùng ánh sáng của hỏa châu sáng vằng vặc. Nhiều loạt đạn từ máy bay bắn xuống, người ta còn nghe nhiều tiếng la hét vọng ra từ rừng sâu.

        Kể từ đó không ai còn gặp đại Cathay nữa, có lẽ hắn đã bỏ mạng vì những loạt đạn lúc nửa đêm trên núi Tượng, rồi rơi xuống vực sâu nào đó mất xác. Lúc đó, dư luận ở Sài Gòn đặt ra nhiều khả năng về sự biến mất của Đại Cathay, như hắn đã trốn thoát rồi vượt biển qua Campuchia, đi luôn ra nước ngoài lánh nạn. Cũng có tin đồn là Đại Cathay đã lần về được Sài Gòn và sống ẩn dật với vợ là cô Nhân. Lại có đầu óc tưởng tượng phong phú hơn khi đặt ra giả thuyết Đại Cathay bị các chiến sĩ giải phóng trên núi Tượng cứu chữa vết thương, rồi cảm hoá trở thành chiến sĩ giải phóng(!)
 
        Sau ngày giải phóng, hồ sơ về cái chết của Đại Cathay đã làm sáng tỏ: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên du đảng làm bẽ mặt, nhất là sau khi cái chết của đại úy Trần Kim Chi mà ai cũng cho là do Đại Cathay tạo ra, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Sau khi bắt đưa Đại ra Phú Quốc, tướng Loan vẫn chưa có cách gì để tiêu diệt Đại mà không làm náo động Sài Gòn. Qua nguồn tin của đám lính thân cận, tướng Sáu Leo biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch.  Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám du đảng đàn em, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ chôn không để lại dấu vết. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi ngụy quyền sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay.

Shaolaojia sưu tầm.

Kỳ tới: Huỳnh Tỳ Mãi Mãi là Nhị Ca

 

Bài 3.          

Huỳnh Tỳ Mãi Mãi Là “Nhị Ca” !

       Trong thế giới du đãng Sài Gòn trước năm 1975, thứ bậc được phân định khá rõ ràng. Bộ tứ thống lĩnh thế giới giang hồ Sài Gòn khi ấy được đặt cho cái tên khá mỹ miều là “Tứ đại thiên vương”, gồm 4 tên trùm du đãng được xếp theo thứ tự là Đại – Tỳ - Cái – Thế (tức Lê Văn Đại (Đại Cathay) – Huỳnh Tỳ - Ngô Văn Cái – Nguyễn Kế Thế (Ba Thế)). Đại Cathay không có đối thủ, nên tất cả du đãng Sài Gòn đều phong là “đại ca”. Theo thứ bậc thì Huỳnh Tỳ là “nhị ca”, thế nhưng dân giang hồ Sài Gòn khi ấy không thật sự nể phục Huỳnh Tỳ. Sau ngày giải phóng, trong khi nhiều “anh chị” đã chết, thân tàn ma dại vì ma túy và bệnh tật, thì Huỳnh Tỳ vẫn “gượng” lại được, trở thành “đồ đệ” của Năm Cam, mặc dù trước giải phóng là đàn anh của Năm Cam. Cái số của Huỳnh Tỳ mãi mãi chỉ là “nhị ca”.

        Thư sinh trở thành trùm du đãng

        “Nhị ca” Huỳnh Tỳ tên thật là Nguyễn Thuận Lai, sinh năm 1944 tại quận 1, Sài Gòn. Huỳnh Tỳ là trường hợp trùm du đãng hiếm hoi không xuất thân từ trẻ bụi đời, thất học, sống lang thang trên đường phố.

        Huỳnh Tỳ có gia đình yên ấm, được cha mẹ cho học hành đàng hoàng, thậm chí còn học cao nữa là khác. Thời đó, vào thập niên 1950, không phải gia đình nào cũng có thể cho con học tới trung học. Vậy mà Nguyễn Thuận Lai lại được cắp sách đến trường cho đến hết lớp đệ tam (lớp 10 hiện nay). Thầy và trò Trường Trung học Nguyễn Bá Tòng (quận 1, Sài Gòn) vẫn chưa quên hình ảnh một cậu học sinh hiền lành, chăm chỉ, học giỏi đều các môn, đặc biệt yêu thích thơ văn, nhất là dòng thơ “tiền chiến” (sau này gọi là “thơ mới”). Trong khi nhiều học sinh khác thích “phá cách”, đầu tóc để dài, ăn mặc “hippy”, áo bỏ ngoài quần, thì Nguyễn Thuận Lai luôn chỉnh tề trong bộ đồng phục áo bỏ trong quần, chân mang giày bata, tóc tai gọn gàng. Năm 1960, Thuận Lai học hết đệ tam, gia đình muốn cậu học tiếp để làm “thầy bà”, nhưng thấy cha mẹ làm lụng vất vả nuôi con ăn học, nhất là để các em được tiếp tục học lên cao, Thuận Lai đã lưu luyến rời mái trường để lao vào cuộc mưu sinh phụ giúp gia đình. Lúc ấy cha của Thuận Lai làm nghề lái xe đò đường dài tuyến Sài Gòn - Nha Trang – Pleiku, vì vậy mà ông đem theo đứa con thư sinh hiền lành để tập cho nó nghề lơ xe (phụ xế). Nghề lơ xe thời nào cũng vậy, luôn tiếp xúc với những người buôn bán, phải va chạm với đủ mọi thành phần trong xã hội. Tính tình “thư sinh” của Thuận Lai hoàn toàn không hợp với nghề này, nhiều lần anh bị hành khách ăn hiếp, tức muốn khóc, may nhờ có cha can thiệp. Để rồi chẳng bao lâu, chính nghề lơ xe đường dài phức tạp đã tập cho cậu học trò hiền lành Thuận Lai trở thành tay “anh chị” trên tuyến đường. Hành khách chẳng những không còn có thể ăn hiếp cậu lơ xe mặt còn búng ra sữa, mà trái lại họ phải sợ tính “quái” của cậu. Tiếp thu nhanh ngõ ngách nghề đi xe đường dài từ cha, cộng với trình độ học vấn khá, Thuận Lai dần trở thành tay lơ xe bản lĩnh nhất, bọn lơ xe trên tuyến đường phải nể mặt chiếc xe do cha con Thuận Lai điều khiển. Đi xe đò đường dài, chuyện tranh giành khách giữa các xe, rồi “câu giờ” để rước thêm khách...xảy ra như cơm bữa. Các tài xế và lơ xe thường giải quyết nhau theo luật giang hồ, ai mạnh thì thắng, ai yếu phải chịu lép vế.  Thuận Lai từ một cậu bé thư sinh đã trở thành tay “anh chị” sẵn sàng tỉ thí với các lơ xe khác để giành khách, thậm chí trên xe của anh lúc nào cũng có “đồ chơi” là các loại vũ khí thô sơ để sẵn sàng chiến đấu.

hunh t

 Huỳnh Tỳ vào thập niên 1960. 

       Hai năm làm lơ xe đường dài đủ để cho Thuận Lai từ cậu học trò hiền lành trở thành tay anh chị. Do cha bị bệnh không tiếp tục theo nghề lái xe đường dài, Thuận Lai cũng chấm dứt cảnh rong ruổi trên đường, trở về quận 1 tìm kế mưu sinh. Thế nhưng, cái máu “lơ xe” ngang tàng, phóng túng đã không giúp cho Thuận Lai kiếm được nghề nghiệp gì ổn định ở giữa trung tâm thành phố. Thời ấy ở đường Lê Lai, quận 1 có một rạp hát nổi tiếng tên là Aristo. Từ năm 1955, gánh hát Kim Chung của ông bầu Long di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn đã lấy rạp Aristo làm “hậu cứ”, làm cho nơi đây trở lên phức tạp chứ không yên ắng như trước. Ăn theo gánh hát, nhiều quán ăn, quán nước trên đường Lê Lai và những con đường chung quanh như Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), Nguyễn Văn Tráng (nơi gia đình Thuận Lai sinh sống) mọc lên như nấm. Các hàng quán mọc lên, rồi người xem hát thường xuyên lui tới đã làm cho khu vực này trở nên náo nhiệt, đồng thời cũng kéo theo không ít dân trộm cắp, móc túi, trẻ bán báo, đánh giày từ các nơi tìm đến làm ăn. Khu vực này lại nằm giữa một bên là chợ Bến Thành, một bên là ga xe lửa Sài Gòn, vì vậy mà sự náo nhiệt, phức tạp càng tăng lên theo đà sôi động của khu chợ và nhà ga. Bọn cướp giật, móc túi, lưu manh mỗi lần thực hiện “phi vụ” ở chợ Bến Thành hoặc ngoài nhà ga thường chạy ngay về khu vực này để trốn tránh và tiêu thụ hàng cướp giật, làm cho khu tam giác Lê Lai - Nguyễn Văn Tráng - Gia Long nhanh chóng trở thành mảnh đất màu mỡ để hứng hàng ăn cắp, móc túi bán giá rẻ. Từ đó mà nơi đây cũng ra đời các loại dịch vụ cho giới lưu manh trộm cắp như sòng bài, động chích, tiệm hút, đĩ điếm... Anh chàng thanh niên có 2 năm “chính chiến” trên đường dài miền Trung bằng nghề lơ xe, giờ trở về khu vực Lê Lai đã tỏ rõ sự hơn trội so với băng “tép riu” chưa đi khỏi đít ông Táo. Thuận Lai đã cùng với 2 tay anh chị khác tên Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế đứng ra nhận bảo kê toàn bộ các dịch vụ nhám nhúa này.

       Bà con khu vực đường Nguyễn Văn Tráng đã ngỡ ngàng khi nhìn thấy cậu học trò hiền lành năm nào, sau thời gian đi lơ xe, giờ trở trong vị trí trùm du đãng, liên tục đánh đấm, chém lộn tưng bừng với các băng đảng khác.

        Đã từng là “vua”

        Ngoài Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế, dưới trướng Thuận Lai còn có nhiều đàn em khác như Cu Ba đen, Tâm vồ, Hùng phốc, Luân sún..., họ hợp thành một băng du đãng ngày càng chuyên nghiệp, làm khiếp sợ những người lương thiện trong vùng.

        Lúc mới từ Hà Nội vào, bầu Long và gánh hát Kim Chung đã thu dụng một loạt các tay đao búa từng nổi tiếng một thời ngoài Hà Nội để làm chân bảo vệ. Thời ấy gánh hát nào cũng có lực lượng bảo vệ “đầu gấu” để đối phó với nạn côn đồ không chịu mua vé, chỉ chuyên phá phách các đào kép. Đám bảo vệ đầu gấu của gánh hát Kim Chung gồm Sinh càn, Phúc đen, Tâm Ba tai... không chỉ giữ yên cho gánh hát, mà con hay tụ tập tại quán Kiều Chánh cạnh rạp Aristo để giương oai. Nhiều trận hỗn chiến tóe lửa giữa nhóm của Thuận Lai với đám bảo vệ này đã xảy ra, cuối cùng phần thắng đã thuộc về Thuận Lai. “Làm gỏi” được nhóm bảo vệ của bầu Long, Thuận Lai và đám chiến hữu kéo đến hỏi tội bầu Long và đập phá gánh hát Kim Chung, khiến cho đào kép phải sống trong âu lo, sợ hãi, nhiều đêm đoàn hát không thể kéo màn hát. Để yên thân cho làm ăn, bầu Long đã hạ mình đến gặp Thuận Lai xin lỗi về chuyện “thất lễ” đã qua, rồi mời nguyên băng “cô hồn các đảng” này đến nhà hàng đãi tiệc, dàn hòa hai bên, rồi mời băng của Thuận Lai làm bảo kê cho gánh hát Kim Chung. Từ đó, nhóm du thủ du thực từ Hà Nội vào phải chấp nhận dưới trướng của Thuận Lai, vì vậy mà thế lực của băng nhóm này cùng trở nên hùng mạnh.. Không chỉ đóng “thuế” cho Thuận Lai hàng tuần, mà bầu Long còn cắn răng chấp nhận cho băng đảng của Thuận Lai muốn ra vào rạp Aristo lúc nào tùy thích. Nhiều bữa cả băng mấy chục tên đi ăn nhậu ở đâu về, kéo đến rạp Aristo coi hát, ngồi chiễm chệ hết cả hàng ghế đầu, cười nói hô hố, ghẹo chọc các đào hát trên sân khấu... Bầu Long rất bực mình nhưng cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt, đích thân ông phải lên ngồi bên Thuận Lai để lựa lời khuyên chúng không làm náo động rạp hát...

       Cứ thế, băng du đãng Thuận Lai cứ mạnh dần, mở mang “bờ cõi”, từ khu vực tam giác Lê Lai – Nguyễn Văn Tráng – Gia Long mở dần ra khu chợ Bến Thành, khu ga xe lửa Sài Gòn,...  “Tam đầu chế” gồm 3 tên du đãng lì lợm là Thuận Lai, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế nổi lên khắp khu vực trung tâm Sài Gòn, lan ra cả quận 1, chúng thường tụ tập nhậu bia rượu, bài bạc suốt ngày tại rạp hát Aristo, nên được giang hồ gọi luôn là băng Aristo. Cách thức hoạt động của băng Aristo do Thuận Lai cầm đầu là cho đàn em đi quậy phá nhà hàng, quán ăn, doanh nghiệp nào đó trên địa bàn. Xong Thuận Lai tới đặt vấn đề bảo kê để không bị bọn “cô hồn kia” quấy phá. Cứ vậy, dần dần hầu hết giới làm ăn, buôn bán trong khu vực đều trở thành “tá điền”, hàng tuần phải “nộp tô” cho băng nhóm Thuận Lai. Lúc này, để trốn không đi lính, Thuận Lai phải làm giấy cho nhỏ tuổi, thay đổi họ tên, từ Nguyễn Thuận Lai thành Huỳnh Tỳ. Cái tên Huỳnh Tỳ bắt đầu xuất hiện khoảng năm 1963 và nhanh chóng trở thành nỗi khiếp sợ đối với những người làm ăn lương thiện trên địa bàn trung tâm thành phố Sài Gòn.

        Địa bàn hoạt động ngày càng mở rộng, để rồi cho tới một lúc băng của Huỳnh Tỳ đụng chạm tới lãnh địa của một băng du đãng cũng đang nổi lên ở quận 1 do Lê Văn Đại cầm đầu đang bảo kê khu vực chợ Cầu Ông Lãnh, cách đó chỉ gần 1  cây số.

       Nhường “ngôi” cho Đại Cathay

       Khoảng năm 1964, nhờ sự liều lĩnh của Lê Văn Đại, băng du đãng Đại Cathay đã thống lĩnh cả giới giang hồ quận 4, bắt đầu chồm sang làm ăn ở quận 1, mà đầu tiên là bảo kê cho các chủ dựa, chủ nhà hàng ở khu vực chợ Cầu Ông Lãnh.

       Như vậy là lãnh địa của 2 băng du đãng khét tiếng ở Sài Gòn bắt đầu “chồng lấn” lên nhau, đã xảy ra một vài vụ đụng chạm giữa đàn em của Huỳnh Tỳ và các “đồ đệ” của Đại Cathay. Lo sợ thế lực của băng Cathay sẽ tràn sang cả “thánh địa” Lê Lai của mình, Huỳnh Tỳ bàn với hai phó tướng là Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế tìm cách loại Đại Cathay ra khỏi thế giới giang hồ Sài Gòn. Bọn chúng tính rằng, băng Đại Cathay mạnh là nhờ có Lê Văn Đại lì lợm và giỏi võ, nếu tiêu diệt được Đại thì băng Đại Cathay sẽ như rắn mất đầu, không còn đáng sợ. Huỳnh Tỳ và đồng bọn bàn tính mãi, cuối cùng chọn cách bày tiệc trên lầu rạp hát Aristo, mời Đại Cathay tới gặp gỡ để thông cảm cho những va chạm đã qua của bọn đàn em. Cho tới lúc ấy, giang hồ Sài Gòn vẫn đánh giá cao trình độ học vấn, những tên du đãng, tên cướp nào có học thức thường được giới giang hồ xem trọng hơn những tên thất học. Trong cách nhìn đó, Huỳnh Tỳ được đánh giá cao hơn nhờ học hành đàng hoàng, tới lớp đệ tam, so với Đại Cathay không viết nổi tên mình.

       Thế nhưng, từ sau cuộc đụng độ giữa Huỳnh Tỳ và Đại Cathay, cách nhìn của giới giang hồ đã thay đổi, khi mà kẻ có học lại cư xử khá “vô học”, còn kẻ thất học lại chứng tỏ bản lĩnh của mình. Được Huỳnh Tỳ gửi thư mời tới dự tiệc với lời lẽ trân trọng, với lại đây cũng là tay du đãng có tiếng là học hành đàng hoàng, nên Đại Cathay không mảy may nghi ngờ, một mình Đại tay không từ quận 4 đi sang quận 1, vào rạp hát Aristo, đi lên lầu, hắn không hề biết đang đi vào cửa tử. Chỉ có sự may mắn và khả năng chịu đựng dao búa mới giúp cho Đại ra khỏi rạp Aristo còn sống sót, khi mà cả băng Huỳnh Tỳ với đủ thứ “đồ chơi” đã mai phục sẵn, đợi Đại vào rạp Aristo là giết chết. Chưa lên hết cầu thang, Đại Cathay đã cảm thấy chột dạ khi mà nụ cười đón khách của Huỳnh Tỳ có cái gì đó thâm hiểm chứ không đường hoàng, trong sáng của kẻ có học. Chưa kịp chào hỏi, Đại Cathay bất ngờ bị Nguyễn Kế Thế đá lộn cổ xuống thang lầu. Cùng lúc 4 tên du đãng giỏi võ nhất trong băng Huỳnh Tỳ được phân công sẵn xông ra chém Đại tới tấp. Vừa tay không đỡ đòn, Đại vừa đánh trả để mở đường máu thoát ra ngoài cửa rạp. Khi lao được ra ngoài đường, thoát khỏi tử địa, mình mẩy của Đại đầy thương tích, máu me đầm đìa. Băng của Huỳnh Tỳ ùa theo ra đường Lê Lai chém cho chết Đại Cathay, nhưng may mắn cho Đại khi tình cờ có một đàn em chạy chiếc Gobell ngang qua, đã lao thẳng xe máy vào Huỳnh Tỳ để cứu chủ tướng. Huỳnh Tỳ và đồng bọn bất ngờ bị xe tông thẳng, đã buông dao để đối phó, cùng lúc Đại được đàn em cõng chạy nhanh về phía chợ cầu Ông Lãnh kêu đàn em tiếp cứu.

      Không giết chết được Đại Cathay, băng nhóm Huỳnh Tỳ lui về chờ đợi cuộc trả thù đẫm máu. Đại bị chém trọng thương, nhưng không dám đi bệnh viện chữa trị, vì sợ băng của Huỳnh Tỳ truy sát, nên phải ở lại cứ địa quận 4 mướn bác sĩ đến chữa trị. Khi những vết thương còn chưa kéo da non, Đại Cathay đã một mình lặng lẽ giắt dao đi sang quận 1 để giải quyết ân oán giang hồ. Đàn em đòi đi theo, Đại kiên quyết không cho, vì đây là chuyện cá nhân của Đại, để một mình Đại giải quyết.  Chính cách cư xử đầy bản lĩnh và anh hùng của Đại Cathay, so với cách đánh lén hèn hạ của Huỳnh Tỳ trước đó, đã làm cho Đại Cathay nổi lên như cồn sau vụ đụng độ này. Đại nổi lên bao nhiêu thì Huỳnh Tỳ càng thất thế bấy nhiêu, cùng lúc là cái sự “thất học” của Đại cũng thắng thế so với chuyện “học hành đàng hoàng” của Huỳnh Tỳ. Không biết bằng cách nào, mà cả 3 tên chủ tướng của băng Aristo là Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái và Nguyễn Kế Thế đều lần lượt nhận đúng 1 nhát dao, Đại cố ý chém để thẹo suốt đời chứ không cho chết. Đồng thời, Đại Cathay ra “tối hậu thư” buộc băng Aristo của Huỳnh Tỳ phải tự giải tán, nếu như Huỳnh Tỳ còn muốn sống.

        Nhắm thế không thể đối đầu Đại Cathay, mà cũng thấy nhục trong giới giang hồ sau vụ đụng độ đầy tai tiếng này, Huỳnh Tỳ đành thay mặt cả băng bắn tiếng cầu hòa, xin gia nhập vào băng của Đại Cathay. Không dễ dàng bỏ qua, Đại Cathay trả lời rằng cách hành xử của Huỳnh Tỳ và băng Aristo không xứng đáng tồn tại trong giới giang hồ, buộc phải giải tán. Hoảng quá, Huỳnh Tỳ phải cậy nhờ bầu Long (chủ đoàn hát Kim Chung) đứng ra nhờ Tám Lâu, một đàn anh cũ của Đại Cathay nhờ giúp đỡ. Nể tình người đàn anh đã từng giúp Đại buổi ban đầu, Đại mới nguôi ngoai, chấp nhận cho Huỳnh Tỳ và cả băng Aristo đến dập đầu xin lỗi. Lần này tiệc nhậu “giảng hòa” không phải ở rạp Aristo như trước, mà tổ chức ở một nhà hàng bên quận 4, cứ địa của Đại. Huỳnh Tỳ đã quỳ trước mặt Đại nói những lời xin lỗi đáng thương nhất, để rồi sau đó băng Aristo vĩnh viễn bị xóa sổ, quân tướng của Aristo về qui phục dưới quyền sai phái của một đại ca duy nhất là Đại Cathay.

         Cuộc hợp nhất giang hồ vào cuối năm 1964 đã xóa sổ cái tên Aristo, đẻ ra danh xưng “Tứ đại thiên vương” Đại-Tỳ-Cái-Thế, cùng với việc danh tiếng của Đại Cathay càng lừng danh gấp bội khắp thành phố Sài Gòn. Huỳnh Tỳ tự an ủi mình với danh xưng “nhị ca” trong “tứ đại thiên vương”, tận tụy phò tá Đại Cathay và được Đại Cathay giao trông coi các sòng bài, tiệm hút trên địa bàn khu Lê Lai và khu Cầu Muối.  Đó cũng là thời hoàng kim của băng Đại Cathay, bởi chỉ chưa tới 2 năm sau, vào tháng 6 năm 1966 khi Đại Cathay bị bắt, băng Cathay tan rã. Huỳnh Tỳ cũng không thể trở lại ngôi vị thủ lĩnh ngày nào, tuy vậy cũng tiếp tục có số má trong giới giang hồ Sài Gòn cho tới ngày miền Nam giải phóng.

       Ân tình với Năm Cam

        Huỳnh Tỳ lớn hơn Năm Cam 3 tuổi. Vào đầu thập niên 1960, khi Huỳnh Tỳ đã nổi danh trong “tứ đại thiên vương”, thì Năm Cam mới là tay giang hồ đàn em, chuyên bảo vệ cho các vũ trường. Chính Huỳnh Tỳ đã giúp Năm Cam thoát nạn trong một vụ thanh toán bằng súng ngay trong vũ trường.

 

dsc03741

    Thẻ dự phiên xét xử vụ án Năm Cam của Shaojia Zhuangzhu

        Sau ngày giải phóng, cả Huỳnh Tỳ và Năm Cam và nhiều tên xã hội đen vằn vện khác vẫn không từ bỏ còn đường du đãng, tiếp tục quậy phá cuộc sống yên lành của người dân, vì vậy mà chúng lại vào tù ra khám.  Năm Cam dần dần củng cố thế lực, đến đầu thập niên 1990 trở thành ông trùm của xã hội đen ở TP.HCM. Huỳnh Tỳ vốn nghiện nặng, thường xuyên đói thuốc, hoàn cảnh gia đình khó khăn khi vợ mất để lại cho Tỳ hai đứa con nhỏ dại. Không băng nhóm, không nghề nghiệp, Huỳnh Tỳ phải xoay sang mánh mung cò con như lắc bầu cua, chích dạo ma túy... để nuôi con và nuôi thân.  Chỉ trong vòng 20 năm (1975-1995), Huỳnh Tỳ phải ra vào trại cải tạo khoảng chục bận với những vi phạm nhỏ. Đầu năm 1992, Huỳnh Tỳ liên kết với một số “chiến hữu” cũ tổ chức  một sòng bạc tại một con hẻm trên đường Lê Lai, nơi cách đó 30 năm Huỳnh Tỳ là “chủ tướng” của băng Aristo lừng danh. Biết chuyện, Năm Cam ra lệnh Huỳnh Tỳ dẹp ngay, vì chỉ có Năm Cam mới có cái quyền mở sòng bạc ở Sài Gòn.  Huỳnh Tỳ không nghe, vẫn tiếp duy trì sòng bạc. Ngay lập tức, sòng bạc này liên tục bị khám xét liên tục, không con bạc nào dám đến chơi.

        Biết là Năm Cam ra tay, Huỳnh Tỳ phải mang lễ vật đến mời Năm Cam hùn vốn danh nghĩa, sòng bạc tiếp tục hoạt động. Ngoài phần ăn chia theo tỉ lệ hùn hạp, mỗi tuần Huỳnh Tỳ phải mang đến nộp cho Năm Cam 5 triệu đồng tiền xâu. Mối quan hệ hùn hạp này kéo dài đến cuối 1992 thì chấm dứt, khi mà tên tuổi của Năm Cam bị đưa lên một tờ báo ở Sài Gòn, các hoạt động bảo kê của Năm Cam cũng tạm chấm dứt. Cho rằng Năm Cam sắp hết thời, Huỳnh Tỳ không chịu cống nộp tiếp. Đầu năm 1993, sòng bạc trong hẻm trên đường Lê Lai bị bắt quả tang, nhiều nhân viên của sòng phải tra tay vào còng. Huỳnh Tỳ may mắn thoát được, nhưng hắn hiểu ngay đó là đòn trừng phạt của Năm Cam. Bị truy nã, Huỳnh Tỳ không còn con đường nào khác, lại phải đến tạ tội với Năm Cam xin nghĩ tới ân tình cũ mà cứu giúp. Năm Cam lại dang tay đón nhận Huỳnh Tỳ, giao quản lý các sòng bạc khác ở quận 4, quận 8 và Biên Hòa. Tháng 9.1995, Năm Cam lại bị báo chí phanh phui, gay gắt hơn lần trước. Lần này Huỳnh Tỳ lại trở mặt không nộp xâu nữa vì cho rằng thời của Năm Cam đã hết, không việc gì phải sợ sệt, cung phụng cho hắn. Quả thật, không lâu sau đó, Năm Cam bị bắt đi cải tạo.

       Khi đi cải tạo về, Năm Cam rất giận “đàn anh” Huỳnh Tỳ dù là người có học mà sống không có trước có sau. Năm Cam đã cấm Huỳnh Tỳ bén mảng tới nhà và các sòng bạc của mình, xem như không còn ân nghĩa anh em gì nữa. Bị thất sủng, thế nhưng đó lại là điều may mắn cho Huỳnh Tỳ. Bởi nếu được Năm Cam tha thứ, thu nạp lại một lần nữa, chắc hẳn sau đó Huỳnh Tỳ không thoát khỏi là bị cáo trong chuyên án “Năm Cam và đồng bọn”.  Đó là điều Huỳnh Tỳ hài lòng nhất trong những năm cuối đời. Cả một cuộc đời làm “nhị ca”, nhưng lúc cuối đời đã thoát khỏi danh xưng hảo đó để không phải cùng Năm Cam ra tòa trong một vụ án lớn nhất về xã hội đen từ sau ngày miền Nam giải phóng.

Tác giả: Hoàng Dũng
Shaolaojia sưu tầm và giới thiệu.

      P/s: Chúng tôi ngờ rằng tấm ảnh trên là của tướng cướp Điền Khắc Kim vì có rất nhiều tài liệu chú như vậy. Chỉ có phụ san Hôn Nhân & Pháp Luật số 26 (ngày 28/3/2012) chú là Huỳnh Tỳ. Loạt bài chúng tôi giới thiệu là được trích từ phụ san Hôn Nhân & Pháp Luật (ấn phẩm phụ của báo Đời sống & Pháp luật).

Hình Ảnh Mới Nhất

  • Hun-luyn-s-dng-CCHT-2.JPG
  • IMG_0167.JPG
  • IMG_0195.JPG
  • IMG_0213.JPG
  • IMG_0417.JPG
  • Thiu-t-v-s-Thiu-Ngc-Sn-2.jpg
  • Thy--Vng.JPG
  • V-s-Thiu-Ngc-11.JPG
  • V-s-Thiu-Ngc-Sn-5.JPG
  • V-s-Thiu-Ngc-Sn-15.JPG
  • Vng-2.JPG