Chuyện Xưa Tích Cũ
Giai thoại về nhà Hồ ở Thanh Hóa...
Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na...
Đất Thanh Hóa phần nhiều là núi, bát ngát bao la đến mấy ngàn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na[1]. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu bụi trần không bén tới, chân người không bước tới. Hằng ngày trong động có nhiều tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng, lại nói những việc trồng dâu trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên nhà cửa, tiều phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại thủng thỉnh về động. Người đương thời cho là người thuộc hạng Thần môn Tiếp Dư[2], chứ Thái Hòa[3] trở xuống đều không đủ kể .
Nhà Hồ (1400 - 1407) với sự kết thúc ngắn ngủi...
Sau đến năm Khai Đại nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp ở đường vừa đi vừa hát rằng:
Thụ thương thương
Yên mịch mịch
Thủy sằn sằn
Triêu hề ngô xuất
Hữu y hề chế kỹ
Hữu bội hề nhậh lan
Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,
Nhậm tha triều thị
Nhậm tha xa mã
Tri trần bất đáo thử giang san,
U thảo Tống triều cung kiếm,
Cổ khâu Tấn đại y quan
Vương tạ phong lưu
Triệu Tào sự nghiệp
Toán vãng, cổ lai kim khanh tướng,
Thạch triện đài man
Tranh như ngã trạo đầu nhất giác
Hồng nhật tam can.
Cây tùm um, nước long lanh khói mờ.
Đi về hôm sớm thẩn thơ,
Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa.
Non xanh bao bọc quanh nhà,
Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài,
Kiếm cung triều Tống dưới làn cỏ xanh
Sự đời bao xiết mong mang,
Phong lưu Vương, Tạ, công danh Triệu, Tào
Từ xưa khanh tướng ngôi cao,
Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi.
Sao bằng ta được thảnh thơi,
Giấc mai bừng tỉnh mặt trời lưng không.
Hát xong rồi phất áo đi thẳng, Hán Thương đoán chắc đó là một vị ẩn giả, bèn sai quan hầu là Trương Công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì thấy người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi thoăn thoắt trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng hai, ba dặm. Song đường núi gập ghềnh càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người ấy đâu cả. Ngẩng lên trông, tà dương đã gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ mờ, bàng hoàng muốn về, nhưng đã không kịp. Bỗng nghe có tiếng gà gáy ở trên một chòm cây trúc, Trương mừng mà rằng:
- Đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì.
Chống gậy trèo lên thì thấy có một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền chen lẫn vào những cây bích đào, hồng hạnh, đều xanh tốt đáng yêu cả. Trong am đặt một cái giường mây; trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên bức vách đông tây đều trát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là “Thích ngủ”, một bài là “Thích cờ”.
BÀI CA THÍCH NGỦ
Ái vị an thu tính thích nhiên
Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý
Ủy đẳng sàng kết cựu nhân duyên
Mai chi hiên trúc chi viên
U cư thú vị hữu lâm tuyền.
Thanh nô ủng hậu
Hồng hữu la tiền
Môi hắc điềm thắng,
Cảnh lương tứ khinh tiễn
Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng,
Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên
Kỳ ngạo thảo lư, Nam dương nhàn nhật nguyệt
Khiếm thân Vân quán, Triêu Tống trích sơn xuyên
Bắc song ngâm hồn dị súc,
Tây đường xuân mộng thường viên
Thư lâu sơ quyển tịch,
Tửu điếm dục tình thiên
Huyền hạc Hoàng châu dạ dạ
Mỹ nhân Tương thủy niên niên
Hữu thời hướng túy hương đả ngọa
Thảo phô nhân, hoa phô ốc, địa phô chiên
Bành trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt,
Liêm Khê viện tĩnh, nhất chẩm đề quyên.
Nhiệm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát thụy hán, vi ẩn thần tiên.
Dịch:
Vì chưng ngủ được, trong người sởi sang
Nhân duyên xe chặt giường màn
Trúc, mai, rừng, suối muôn vàn cảnh thanh.
Quanh mình bạn đỏ hầu xanh
Giấc ngon bừng tỉnh tâm linh nhẹ vèo.
Bưng tai chuyện thế eo sèo,
Khoanh tay ngất ngưởng nằm khoèo bên mây.
Lều tranh một túp xinh thay,
Nam Dương nọ kẻ tháng ngày thảnh thơi
Quán Vân uể oải nằm dài,
Non sông coi nhỏ kìa ai Tống Triều
Lầu tây song bắc tiêu diêu
Khi mai quán rượu, lúc chiều hiên thơ,
Sông Tương người đẹp trong mơ
Châu Hoàng bóng hạc vật vờ cao bay
Có khi ngủ tít làng say,
Đất giường, cỏ đệm, hoa vây làm màn.
Uyên Minh ngủ dưới trăng tàn
Liêm Khê gối chợp tiếng ran quyên gào
Chê khen ai bảo thế nào:
Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng.
BÀI CA THÍCH CỜ
Ái vị phong vân thiểu thái kỳ.
Liệt xứ loại long xà thất thế,
Thắng biên như hùng hổ uy dương uy.
Xa song trì, mã song phi
Độ hà nhất tốt kháo trùng vi
Bắc nam tương giới, hình thế tương y
Phương viên động tĩnh diệu toán vô di
Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng.
Thủ dao dao lung toái hương nê,
Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu
Hoàng châu lâu hiểu, minh đính bán tỉnh thì.
Trú Vĩnh thiên lưu khách cửu,
Am cao tử lạc thanh trì
Viện giáo dung thiếp tảo
Liêm hứa tiểu đồng khuy
Doanh thâu đổ giang sơn bán cục
Công danh tiêu đắc thất nhàn ky
Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch,
Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi
Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật.
Trường an công tử, túy úy vong quy
Tương đối xử kiêm ta cầm, kiêm tà họa, kiêm ta bích đề thi.
Dịch:
Gió mây biến hóa ai ôi lạ lùng.
Cơn thua, rồng rắn khi cùng,
Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai.
Ngựa ai giong đuổi đường dài,
Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi.
Bắc nam hình thế riêng chia,
Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường.
Xuân êm khua tỉnh giấc vàng,
Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay
Vườn riêng xum họp bạn bầy.
Châu hoàng lầu Trúc rượu say nửa vời
Ngày dài lưu khách ngồi chơi,
Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn.
Tiểu đồng ngấp ngó bên lan,
Cô hầu quanh viện quét tàn lá rơi.
Giang sơn vật lộn tay đôi,
Công danh quên bẫng chuyện đời hơn thua.
Ngày vui thời khắc êm đưa,
Trăng tà hương lạnh trúc ngơ ngẩn cành.
Thần tiên nhàn nhã vườn quỳnh,
Trường an công tử thích tình vui say.
Trong khi vui nước cờ hay,
Thêm đàn thêm rượu, thêm đầy vách thơ.
Bấy giờ tiều phu đương ngồi ở cái hiên đá, dạy con chim yểng học nói; bên cạnh có vài cậu trẻ nhỏ ngồi đánh cờ. Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc mà rằng:
- Chỗ này quạnh vắng
Trương nói:
- Tôi là chức quan Cung phụng của đương triều, vì ngài là bậc cao sĩ, nên tôi được vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện có loan giá ở ngoài kia, xin ngài ngoảnh lại một chút.
Tiều phu cười mà rằng:
- Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, là vua quan nào.
Bèn mời Trương ở lại đó làm mâm thết, cơm thổi bằng hạt điêu hồ, canh nấu bằng rau cẩm đái, lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya, chuyện trò, đều là những lời ý nghĩa đáng nghe cả, nhưng không có một câu nào đả động đến thời sự. Hôm sau, Trương lại mời:
-Những bậc quân tử đời xưa, không phải là không muốn giúp đời hành đạo; khi mà giấu kín một chỗ, chỉ là còn đợi giá mà thôi. Cho nên tất cả bức tếu tượng đi tìm rồi sau đồng Thương mới thấm nước, tất có cỗ hậu xa đi chở, rồi sau nội Mục mới thành công. Nay phu tử lấy tấm thân vàng ngọc ôm một bọc kinh luân, ngoài vòng vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám ngư tiều, giấu tài trí trạch, náu mình chốn rừng suối, vang tiếng đến cửu trùng, đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó. Dám xin bỏ bờ đập Phó Nham, ném cần câu Vị Thủy, đừng để uổng hoài khát vọng của bao kẻ thương sinh.
Tiều phu nói:
-Kẻ sĩ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! cho nên Nghiêm Tử Lăng không đem chức Giám nghị ở Đông Đô, đánh đổi khói sóng Đồng Thủy, Khương Bá Hoài không đem bức tranh vẽ của Thiên Tử làm nhơ non nước bành Thành. Tài ta tuy kém, so với người xưa chưa bằng được. Nhưng may lại giàu hơn Kiềm Lâu, Thọ hơn Vệ Giới, no hơn Viên Tinh, đạt hơn Phụng Thiến, kể thì cũng đã được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len lỏi vào đường tiến sĩ, chẳng những xấu hổ với các bậc tiên hiền, lại còn phụ bạc với vượn hạc ở trong núi nữa. Vậy xin ông đi đi, đừng nói lôi thôi gì nữa.
Trương nói:
-Ngài cho là hiện thời không đủ để cho ngài làm việc được chăng? Nay có đấng Thánh nhân ngự trị, bốn bể đều ngóng trông, người Chiêm dâng đất mà xưng thần, quân Minh nộp lễ để xin lui, Lão Qua, Đại Lý các nước cũng đều tranh nhau quy phục. Hiện chỉ còn thiếu các bậc dật nhân ở rừng núi ra mà giúp rập, khiến cho huân đức của Chúa thượng được sánh cùng các vua Nghiêu, Thuấn ngày xưa. Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước như Vụ Quang, Quyên Tử, thì cứ như vậy không sao. Nhưng nếu còn hơi để ý đến đám dân kia thì bỏ lỡ dịp này không ra, tôi sợ rằng sẽ cùng cỏ cây cùng nát, không bao giờ lại có được dịp gặp gỡ hay này nữa.
Tiều phu biến sắc nói:
- Như lời ông nói, há chẳng là khoe khoang quá, khiến cho người nghe phải thẹn thùng, Vả vì vua ngự trị bây giờ, Có phải là họ Hồ không?
- Chính phải.
- Có phải là đã bỏ khu Long Đỗ để về ở đất An Tôn không?
- Phải.
Tiều phu nói:
- Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi lẻo bẻo, đã đắm mình trong cái triều đình trọc loạn, lại còn toan kéo người khác để cùng đắm với mình.
Thành nhà Hồ của nước Đại Ngu xưa
Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều phu tâu lại với Chúa. Hán Thương không bằng lòng, nhưng còn muốn đem cổ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi lần nữa. Nhưng vào đến nơi thì rêu trùm cửa hang, gai góc đầy núi, dây leo, cành rậm đã lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau này:
Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn,
Cao Vọng sơn đầu khách tứ sầu.
Dịch
Kỳ La cửa bể hồn thơ đứt,
Cao Vọng đầu non dạ khách buồn.
Y lời như giọng trào phúng của họ Nguyên, họ Bạch, thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu, ông Tư, nhưng rút lại chẳng hiểu là định nói gì, Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn trên không bay múa. Sau hai Hồ gặp phải tai họa đều đúng như lời thơ.Gã tiều phu ấy, có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đấy chăng?
Lời Bình:
Than ôi, có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước, đó là việc của Thánh nhân; tiều phu, tuy là bậc hiền, nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy. Tuy nói việc táng bại của nhà Hồ, đúng như là bới cỏ bói rùa, nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đi như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng minh để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả./.
AnhSang sưu tầmThiều Tam Thanh giới thiệu